Phản hồi của Bộ TNMT về quy định làm tăng chi phí môi trường cho doanh nghiệp

Tác giả : Admin 23/09/2021

Vừa qua, một số tổ chức, hiệp hội doanh nghiệp cho rằng Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường sẽ làm tăng gánh nặng, chi phí về môi trường cho doanh nghiệp.

Trước phản ánh của một số tổ chức, Hiệp hội, Bộ Tài nguyên và Môi trường (Bộ TN&MT) vừa có phản hồi sau:

Bộ TN&MT cho biết, dự thảo Nghị định đã bám sát, cụ thể hóa chủ trương cải cách thủ tục hành chính (TTHC) theo quy định của Luật BVMT 2020. Trong đó, giảm 18 TTHC so với quy định hiện hành (giảm 34%); tích hợp 7 loại giấy phép, xác nhận gồm: Giấy xác nhận hoàn thành công trình BVMT, giấy xác nhận đủ điều kiện về BVMT trong nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, giấy phép xả khí thải công nghiệp, giấy phép xử lý chất thải nguy hại, giấy phép xả nước thải vào nguồn nước, giấy phép xả nước thải vào công trình thuỷ lợi, sổ đăng ký chủ nguồn thải chất thải nguy hại vào 1 giấy phép môi trường (GPMT).

9779 1632386919 Bo Tnmt
Bộ Tài nguyên Môi trường. Ảnh: Tư liệu

Theo Bộ TN&MT, như vậy, thay vì phải thực hiện nhiều giấy phép đơn lẻ thì theo dự thảo Nghị định, DN chỉ cần thực hiện 1 thủ tục là đề nghị cấp GPMT.

Về đối tượng đánh giá tác động môi trường (ĐTM), cấp GPMT, một số hiệp hội cho rằng, trước đây, chỉ có các dự án gây ô nhiễm đến môi trường (nhóm I) mới phải làm ĐTM và xin GPMT, nhưng với quy định mới, thì việc các dự án và nhà máy nhóm I và nhóm II đã hoạt động cũng phải làm ĐTM và xin GPMT là không có cơ sở.

Lý giải vấn đề này, Bộ TN&MT cho biết, Khoản 1 Điều 30 Luật BVMT quy định, đối tượng phải thực hiện ĐTM là dự án nhóm I và nhóm II có yếu tố nhạy cảm về môi trường, như xả thải vào nguồn nước cấp sinh hoạt, đầu tư trong khu bảo tồn thiên nhiên, rừng, di tích lịch sử văn hóa… Điều 39 Luật BVMT cũng quy định rõ về đối tượng phải có GPMT. Vì thế, quy định về đối tượng phải thực hiện ĐTM và GPMT trong dự thảo Nghị định là đúng quy định của pháp luật.

Về trình tự, thủ tục cấp GPMT, dự thảo Nghị định mới cập nhật đến ngày 16/9/2021 và gửi Bộ Tư pháp thẩm định đã tiếp thu nhiều ý kiến của các hiệp hội, DN theo hướng đơn giản hóa nhiều quy định về hồ sơ, trình tự đề nghị cấp GPMT như: Chỉnh sửa nội dung báo cáo đề xuất cấp GPMT đơn giản hơn, phù hợp với từng đối tượng được cấp GPMT, trong đó chỉ yêu cầu các thông tin liên quan đến các công trình BVMT đã hoàn thành, kết quả thanh tra, kiểm tra, quan trắc môi trường; bỏ trình tự về thông báo việc nộp phí thẩm định cấp GPMT; đơn giản hóa quy trình rà soát tính hợp lệ của hồ sơ theo hướng chỉ thực hiện 1 lần (theo dự thảo cũ thì thực hiện 2 lần khi tiếp nhận hồ sơ và khi thành lập đoàn kiểm tra).

Quy trình cấp GPMT cũng được quy định đơn giản hóa theo tính chất của dự án, như trường hợp các dự án không có công trình xử lý chất thải phải vận hành thử nghiệm và trường hợp điều chỉnh GPMT thì được thực hiện trên môi trường điện tử thông qua hệ thống dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trong thời gian không quá 15 ngày (rút ngắn 30 ngày đối với trường hợp thuộc thẩm quyền cấp GPMT của cấp bộ và 15 ngày đối với trường hợp thuộc thẩm quyền cấp GPMT của cấp tỉnh, cấp huyện so với thời hạn theo quy định của Luật BVMT 2020).

Bộ TN&MT cho biết, ý kiến cho rằng phần lớn DN phải trải qua 2 lần thẩm định và 2 lần kiểm tra thực địa (khi thẩm định ĐTM và khi thẩm định, cấp GPMT) là không phản ánh đúng nội dung của Luật BVMT 2020, cũng như quy định chi tiết nội dung này trong dự thảo Nghị định.

Theo quy định tại Khoản 4 Điều 34 Luật BVMT 2020, trong trường hợp cần thiết cơ quan thẩm định báo cáo ĐTM mới tổ chức khảo sát thực tế khu vực dự kiến triển khai dự án để phục vụ công tác thẩm định ĐTM, đây không phải là hoạt động kiểm tra. Đối với việc cấp GPMT, dự thảo Nghị định cũng chỉ quy định trong trường hợp cần thiết đối với các dự án thuộc nhóm I, nhóm II, cơ quan cấp GPMT mới thành lập đoàn kiểm tra.

Về đối tượng phải quan trắc tự động, liên tục, dự thảo đã tiếp thu ý kiến góp ý, hỗ trợ các DN vượt qua đại dịch COVID-19 và chỉnh lý theo hướng lùi thời gian phải hoàn thành lắp đặt hệ thống quan trắc tự động, liên tục đối với tất cả các trường hợp đến hết ngày 31/12/2024. Đối với các trường hợp đã lắp đặt hệ thống quan trắc tự động, liên tục theo quy định thì được miễn thực hiện quan trắc định kỳ trong thời gian này.

Bàn về cơ chế trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhập khẩu (EPR), Bộ TN&MT cho rằng, ý hiểu “Dự thảo quy định tỉ lệ tái chế bắt buộc áp dụng ngay ở mức 80-90%” là phản ánh chưa đúng nội dung quy định này, có sự hiểu nhầm với tỉ lệ thu hồi tối thiểu của nguyên liệu, vật liệu trong bao bì, sản phẩm. Dự thảo Nghị định hiện nay không quy định cụ thể tỉ lệ tái chế cho từng sản phẩm, bao bì, mà chỉ quy định công thức tham chiếu và quy trình xác định tỉ lệ tái chế bắt buộc cho từng giai đoạn. Việc xác định tỉ lệ tái chế cụ thể sẽ do Hội đồng EPR quốc gia (bao gồm các bộ, đại diện các nhà sản xuất, nhập khẩu và đại diện một số tổ chức, chuyên gia có liên quan) thảo luận, quyết định trên cơ sở công thức tính tỉ lệ tái chế tham chiếu, mục tiêu tái chế quốc gia và tình hình kinh tế-xã hội của từng giai đoạn.

Về đóng góp tài chính để hỗ trợ tái chế, đây là nội dung được quy định tại Điều 54 Luật BVMT 2020, không phải là khoản thuế, phí hay lệ phí theo quy định của pháp luật về thuế, phí và lệ phí. Về bản chất đây là quy định trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu trong trường hợp không trực tiếp thực hiện tái chế đây, không phải là khoản đóng góp bắt buộc, do đó không thể được coi là một nguồn thu thuế, phí. Việc đóng khoản tiền này sẽ được sử dụng để hỗ trợ cho các hoạt động tái chế liên quan đến các sản phẩm, bao bì của nhà sản xuất, nhập khẩu. Để bảo đảm tính công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng khoản tiền này, dự thảo Nghị định quy định nhà sản xuất, nhập khẩu tham gia Hội đồng EPR quốc gia để quyết định và giám sát việc sử dụng khoản tiền này hiệu quả, đúng mục đích.

Trước ý kiến băn khoăn về quy định các cơ sở chế biến thủy sản thuộc Mục III danh mục loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, Bộ TN&MT khẳng định, đây không phải là quy định mới của dự thảo Nghị định, mà đã được kế thừa quy định của Nghị định số 40/2019/NĐ-CP của Chính phủ và đã được triển khai thực hiện ổn định cho đến nay.

Quy định này xuất phát từ lý do đặc thù của loại hình chế biến thủy sản thường phát sinh nước thải có hàm lượng chất ô nhiễm hữu cơ rất cao, lưu lượng xả thải lớn, vị trí sản xuất thường nằm ở khu vực ven sông, ven biển và nơi có nhiều cư dân, ngư dân sinh sống, nước thải có nguy cơ gây phú dưỡng, ảnh hưởng đến môi trường và các hệ sinh thái ven sông, ven biển.

Do đó, việc quy định loại hình này thuộc nhóm có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường để có sự kiểm soát chặt chẽ hơn là cần thiết, phù hợp với các quy định của quốc tế; qua đó sẽ tạo thuận lợi cho các sản phẩm chế biến thủy sản của Việt Nam có thể đáp ứng được các yêu cầu về BVMT khi tham gia vào thị trường thế giới./.

Tin liên quan